1. Ngày Quốc tế người cao tuổi (01/10)
Liên hợp Quốc đã sớm chú ý tới các vấn đề liên quan đến người cao tuổi (NCT) và đã tổ chức Đại hội thế giới lần đầu tiên trong lịch sử loài người vào tháng 10/1982, tại thành phố Viên, Thủ đô nước Cộng hòa Áo. Đại hội đã phân tích sâu sắc mọi khía cạnh về NCT; chỉ ra tiềm năng quí giá của NCT; khẳng định tuổi thọ tăng và khẳng định NCT là nhân tố quan trọng của sự phát triển. Đại hội đã trịnh trọng tuyên bố: “Cần bảo đảm không một hạn chế nào, mọi quyền lợi của NCT theo đúng Tuyên ngôn về Quyền con người của Liên hợp quốc”. Đại hội lịch sử này đã thông qua Chương trình hành động quốc tế dài hạn về NCT (Nghị quyết số 37/51); Phát động Năm Quốc tế NCT (1982); Thông qua biểu tượng "Cây đa" biểu trưng của NCT.
Ngày 14/12/1990, tại Đại hội đồng Liên hợp Quốc (theo Nghị quyết số 45/106) đã chỉ định ngày 1 tháng 10 hằng năm là Ngày Quốc tế Người cao tuổi, bắt đầu từ ngày 1/1/1991), viết tắt là IDOP (International Day of Older Persons). Đây là một ngày hành động quốc tế được lập ra với mục đích tuyên truyền, cổ động cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng và bảo vệ những người cao tuổi.
Việt Nam là một trong số các nước đã hưởng ứng ngay từ những ngày đầu. Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đã quan tâm đến Ngày Quốc tế NCT (1/10) hằng năm bằng những việc làm thiết thực; Chính phủ đã ban hành Quyết định số 544/QĐ-TTg, ngày 25/4/2015, lấy tháng 10 hằng năm là “Tháng hành động vì người cao tuổi Việt Nam”.
Nội dung truyền thông năm 2024 - Ngày Quốc tế người cao tuổi (1/10) và Tháng hành động Quốc gia về người cao tuổi Việt Nam như sau:
- Chủ đề: “Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi là trách nhiệm của mỗi cá nhân, gia đình và toàn xã hội”
- Thông điệp truyền thông:
1.1. Quan tâm chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi - chủ động thích ứng với già hóa dân số.
1.2. Chăm sóc, phụng dưỡng người cao tuổi là truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
1.3. Gia đình và xã hội hãy quan tâm chăm sóc, phụng dưỡng để người cao tuổi có cuộc sống vui tươi, hạnh phúc.
1.4. Vì một cộng đồng khỏe mạnh, cùng chung tay chăm sóc sức khỏe người cao tuổi.
1.5. Hãy xây dựng cộng đồng khỏe mạnh, nơi người cao tuổi luôn được yêu thương và chăm sóc.
1.6. Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi không chỉ là trách nhiệm của bản thân mà còn là trách nhiệm của gia đình và cộng đồng.
2. Ngày Khuyến học Việt Nam (02/10)
Trong lịch sử phát triển giáo dục nước nhà, khuyến học. khuyến tài là một đạo lý được dân tộc ta luôn luôn đề cao, truyền bá và phát huy. Qua một nghìn năm độc lập tự chủ, người dân Việt Nam lúc nào cũng tâm niệm rằng, nhân tài quốc gia chi nguyên khí, đại học giáo hoá chi bản nguyên (nhân tài là nguyên khí quốc gia, đại học là gốc của giáo hoá), kiên trì nguyên lý đó để xây dựng một quốc gia văn hiến của mình.
Ngày 29/02/1996, tổ chức xã hội đó ra đời với cái tên Hội Khuyến học Việt Nam. Sứ mạng của nó là “Khuyến học, khuyến tài, xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập”.
Đề cao đạo lý khuyến học, khuyến tài, phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc là một chủ trương đúng đắn, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng và Nhà nước về chấn hưng và đổi mới sự nghiệp giáo dục, xây dựng nước ta thành một xã hội học tập. Đề cao đạo lý khuyến học, khuyến tài, phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc là một chủ trương đúng đắn, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng và Nhà nước về chấn hưng và đổi mới sự nghiệp giáo dục, xây dựng nước ta thành một xã hội học tập.
Tháng 9/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 1271/QĐ-TTg lấy ngày 2/10 hàng năm là “Ngày Khuyến học Việt Nam” với mục đích động viên các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội tham gia công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập; tôn vinh những gương sáng hiếu học, tập thể, cá nhân có thành tích trong công tác khuyến học, khuyến tài.
3. Ngày toàn dân phòng cháy, chữa cháy (04/10)
3.1. Nguồn gốc ra đời
Ngày 4/10/1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Lệnh công bố Pháp lệnh quy định việc quản lý của Nhà nước đối với công tác phòng cháy, chữa cháy (PCCC). Đây là một trong những Pháp lệnh được ban hành sớm nhất của Nhà nước ta, thể hiện được tầm quan trọng của công tác PCCC. Để tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước đối với hoạt động phòng cháy và chữa cháy, bảo vệ tính mạng, sức khỏe con người, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tổ chức và cá nhân, bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, Quốc hội khóa X đã thông qua Luật PCCC. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 04/10/2001, trong đó quy định rõ: Phòng cháy và chữa cháy là trách nhiệm của mỗi cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân trên lãnh thổ Việt Nam. Luật cũng đã quy định lấy ngày 4/10 hàng năm là "Ngày toàn dân phòng cháy, chữa cháy".
3.2. Ý nghĩa ngày toàn dân phòng cháy chữa cháy
Toàn dân phòng cháy và chữa cháy là hoạt động của đông đảo quần chúng nhân dân có sự lãnh đạo, chỉ đạo, nhằm thực hiện các hoạt động phòng cháy, chữa cháy, góp phần đẩy mạnh phong trào quần chúng. Đó cũng chính là ý nghĩa ngày phòng cháy chữa cháy 4/10.
Xây dựng phong trào toàn dân tham gia hoạt động phòng cháy, chữa cháy là một biện pháp thường xuyên và lâu dài, có ý nghĩa chiến lược quan trọng trong quản lý công tác phòng cháy, chữa cháy. Để nâng cao hiệu quả của công tác phòng cháy chữa cháy, căn cứ vào chức năng nhiệm vụ được Nhà nước giao, lực lượng Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy sẽ tổ chức vận động quần chúng.
3.3. Tầm quan trọng của công tác phòng cháy chữa cháy
Công tác phòng cháy chữa cháy là một việc làm hết sức quan trọng, bởi phòng cháy chữa cháy giúp hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro mà cháy nổ gây ra về người và tài sản. Hỏa hoạn, cháy nổ trong đời sống hàng ngày có thể xảy ra bất cứ lúc nào, chính vì vậy nếu không có những biện pháp kịp thời sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng, thiệt hại nghiệm trọng về người và tài sản, không những vậy còn có thể ảnh hưởng đến những khu vực lân cận.
Để nâng cao hiệu quả trong công tác phòng cháy, chữa cháy, mỗi người cần nâng cao ý thức tự giác, trách nhiệm của bản thân trong công tác phòng cháy, chữa cháy.
Để giảm thiểu những vụ cháy nổ xảy ra tại các nhà máy, xí nghiệp, công ty, hay các hộ gia đình cần trang bị những thiết bị giúp phòng cháy, chữa cháy như bình chữa cháy, lắp đặt hệ thống chữa cháy, còi báo cháy, kiểm tra hệ thống điện, ổ cắm điện…
PCCC là trách nhiệm chung của toàn xã hội, bởi an toàn PCCC liên quan mật thiết đến tính mạng, tài sản của tất cả mọi người. Vì thế, cùng với lực lượng Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, mỗi người dân, mỗi chính quyền địa phương, mỗi cơ quan, đoàn thể cần tích cực tham gia phong trào toàn dân PCCC, coi đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Có như vậy, công tác đảm bảo an toàn PCCC mới đạt được hiệu quả.
4. Ngày giải phóng Thủ đô (10/10)
Ngày giải phóng Thủ đô 10/10/1954 là một mốc son sáng chói đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của thực dân Pháp tại Việt Nam, mở ra thời kỳ phát triển mới của Thủ đô và đất nước.
4.1. Lịch sử ngày giải phóng thủ đô 10/10/1954
Sau thời gian dài kháng chiến gian khổ, ngày 20/7/1954, Hội nghị Giơnevơ kết thúc, Hiệp định Giơnevơ về đình chiến ở Đông Dương được ký kết, điều này đồng nghĩa với việc thực dân Pháp phải rút hết quân khỏi Đông Dương. Mặc dù vậy, Hà Nội vẫn còn nằm trong khu vực tập kết của quân đội Pháp trong 80 ngày. Lợi dụng khoảng thời gian cuối cùng này, quân Pháp ráo riết tổ chức các hoạt động phá hoại Thủ đô về mọi mặt. Trước sức mạnh và sự đoàn kết keo sơn của quân và dân Hà Nôi, cuối tháng 9/1954, Bộ Chỉ huy quân chiếm đóng Pháp chấp nhận rút khỏi thành phố đúng thời hạn. Đồng thời, qua nhiều ngày đấu tranh sôi nổi, các hiệp định về chuyển giao Hà Nội được ký kết ngày 30/9/1954 và ngày 2/10/1954 tại Uỷ ban Liên hợp đình chiến Trung ương. Sau đó, Chính Phủ đã phái các đội công an, trật tự, cảnh vệ, hành chính vào Hà Nội để chuẩn bị việc tiếp quản thành phố. Lúc này, theo nghị quyết ngày 17/9/1954 của Hội đồng Chính phủ, Uỷ ban quân chính thành phố Hà Nội được thành lập với nhiệm vụ tiếp quản Hà Nộido thiếu tướng Vương Thừa Vũ, tư lệnh sư đoàn Quân Tiên Phong làm Chủ tịch và bác sỹ Trần Duy Hưng làm Phó Chủ tịch.
Theo kế hoạch, sáng 8/10/1954, các đơn vị quân đội chia nhiều đường tiến vào ngoại thành Hà Nội. Đến 16 giờ 30 phút thì đã tiến đến đường Đê La Thành, Vĩnh Tuy, Bạch Mai, Ngã Tư Sở, Ô Cầu Giấy và Nhật Tân. Đến 6 giờ sáng ngày 9/10/1954, bộ đội ta đi theo nhiều đường từ ngoại thành tiến vào nội thành chia làm nhiều cánh quân tiến vào 5 cửa ô chính rồi từ đó toả đi các nơi, quân Pháp rút đến đâu, bộ đội ta tiến vào tiếp quản đến đó. Đúng 16 giờ 30 phút ngày 9/10/1954, những người lính Pháp cuối cùng rút hết qua cầu Long Biên, quân ta hoàn toàn kiểm soát thành phố. Bộ đội ta tiến đến đâu, nhân dân ta đổ ra hai bên đường, phất cờ, tung hoa, reo mừng không ngớt. Cổng chào, khẩu hiệu dựng lên khắp các nẻo đường, cờ đỏ sao vàng rực rỡ, phấp phới bay trên các tầng nhà.
Đến sáng ngày 10/10/1954 - ngày của kỷ niệm hào hùng, Trung đoàn Thủ đô thuộc Đại đoàn 308 tiến vào tiếp quản Hà Nội trong rừng cờ hoa rực rỡ, trong tiếng reo hò của hàng chục vạn người dân. 5 giờ sáng ngày hôm ấy,nhân dân Thủ đô quần áo chỉnh tề, mang cờ, hoa, ảnh Bác Hồ, xếp thành hàng trật tự, theo từng công sở, xí nghiệp, trường học, khu phố,... kéo tới những con đường chờ đón đoàn quân sẽ diễu qua. Đoàn xe đầu tiên do Thiếu tướng Vương Thừa Vũ và bác sỹ Trần Duy Hưng dẫn đầu.
Đến 8 giờ sáng cùng ngày, cánh quân phía Tây xuất phát từ Quần Ngựa (nay là Cung Thể thao Hà Nội, phố Quần Ngựa). Đó là những chiến sĩ bộ binh của Trung đoàn Thủ đô, mang trên ngực huy hiệu "Chiến sĩ Điện Biên Phủ" trở về với thành phố quê hươngdo Trung đoàn trưởng Nguyễn Quốc Trị - anh hùng quân đội dẫn đầu. Các chiến sĩ diễu binh qua các phố Kim Mã, Hàng Đẫy, Cửa Nam, Hàng Bông, Hàng Đào, Hàng Ngang... đến 9 giờ 45 phút tiến vào Cửa Đông của thành phố Hà Nội.
Lúc này, 8 giờ 45 phút, cánh quân phía Nam thuộc hai trung đoàn 88 và 36cũng xuất phát từ Việt Nam học xá (nay thuộc trường Đại học Bách Khoa), đi qua Bạch Mai, phố Hiếu, diễu binh qua Hồ Gươm rồi vòng lại chiếm lĩnh toàn bộ khu Đồn Thuỷ (Bệnh viện Hữu Nghị ngày nay) và khu Đấu Xảo (Cung Văn hoá Lao động Hữu Nghị ngày nay).
Đến 9 giờ 30 phút, Đoàn Cơ giới và Pháo binh xuất phát từ Bạch Mai, đi qua phố Huế đến bờ hồ, đi qua Hàng Đào, Hàng Ngang, chợ Đồng Xuân, rẽ sang đường Cửa Bắc và tiến vào thành phố lúc 10 giờ 45 phút.
Các đơn vị bộ đội ta đi đến đâu, gương mặt thành phố như bừng sáng đến đó. Đến 15 giờ, còi trên nóc Nhà hát Thành phố nổi lên một hồi dài. Hàng trăm nghìn người dân Thủ đô dự Lễ chào cờ do Uỷ ban Quân chính tổ chức tại sân vận động Cột Cờ với sự tham gia của các đơn vị quân đội. Sau Lễ chào cờ, Chủ tịch Uỷ ban Quân chính Vương Thừa Vũ trân trọng đọc lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào thủ đô nhân ngày thiêng liêng lịch sử. Mở đầu Lời kêu goi, Người viết: "Tám năm qua, Chính phủ phải xa rời Thủ đô để kháng chiến cứu nước. Tuy xa nhau, nhưng lòng Chính Phủ luôn luôn gần cạnh đồng bào...", tất cả mọi người đều rưng rưng xúc động. Ngày 10/10/1954 đã trở thành cột mốc lịch sử, ghi nhận bao nỗ lực, cố gắng, ghi nhận cả những mất mát, hy sinh mà quân và dân ta đã trải qua để giải phóng Thủ đô.
Trong không khí vui mừng của ngày lễ lịch sử, đồng chí Vương Thừa Vũ - Chủ tịch Uỷ ban Quân chính Thành phố Hà Nội đã vinh dự đọc lá thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Thủ đô, Người dặn dò nhân dân hãy: "Đồng tâm nhất trí góp sức với Chính phủ, thì chúng ta nhất định vượt mọi khó khăn và đạt được mục đích chung: Làm cho Hà Nội thành một Thủ đô yên ổn, tươi vui và phồn vinh. Kể từ đó, Hà Nội đã trở thành trái tim thiêng liêng của Tổ quốc, Thành phố vì hoà bình. Trong suốt chặng đường hành quân lịch sử từ ngày Toàn quốc kháng chiến đến Ngày trở về giải phóng Thủ đô, vượt qua biết bao gian khổ, hy sinh, quân và dân Hà Nội đã lập nên mốc son chói lọi làm nức lòng quân và dân cả nước, để lại những bài học quý giá cho những chặng hành quân tiếp theo trên con đường đọc lập, dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến tới mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
4.2. Ý nghĩa của ngày giải phóng Thủ đô 10/10
Hơn nửa thế kỷ trôi qua, giờ đây, biết bao kỷ niệm của tuổi xanh đầy nhiệt huyết về những con người đã làm nên lịch sử, sức mạnh của nhân dân, tinh thần bất khuất của người dân Việt Nam. Ngày 10/10/1954 trở thành một dấu ấn xúc động không quên đối với các thế hệ người dân Việt Nam. Đây là một mốc son trong lịch sử xây dựng và phát triển của Thủ đô và đất nước, đánh dấu một bước ngoặt có ý nghĩa to lớn, mở ra thời kỳ phát triển mới, nhân dân lao động được làm chủ vận mệnh của mình, phấn khởi bước vào xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Từ một thành phố đã chịu nhiều tổn thương từ chiến tranh, giờ đây, Hà Nội đang phát triển từng ngày để xứng đáng là trung tâm về kinh tế, văn hoá, giáo dục và khoa học, có vị trí hàng đầu của cả nước. Chính quyền và người dân Hà Nội đang ra sức xây dựng Thủ đô hoà bình, Thủ đô "ngàn năm văn hiến".
Sự kiện giải phóng Thủ đô 10/10 không chỉ mở ra một trang mới đầy tươi sáng cho Thủ đô Hà Nội mà còn mang đến nhiều bài học từ sự chiến thắng.
Thứ nhất, đó là bài học về xác định rõ vai trò của Thủ đô trong triến trình kháng chiến chống thực dân Pháp và mối quan hệ giữa Thủ đô và cả nước. Hà Nội là "trái tim" của đất nước Việt Nam, là địa bàn chiến lược quan trọng. Chọn Hà Nội là địa phương mở đầu Toàn quốc kháng chống thực dân Pháp xâm lược là một quyết định đúng đắn, sáng suốt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ. Quán triệt phương châm vừa kháng chiến vừa kiến quốc của Đảng, trong quá trình kháng chiến, Hà Nội đã phát huy cao độ khả năng và tinh thần tự lực tự cường; đồng thời luôn phối hợp với chiến trường cả nước, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung với tinh thần "Hà Nội vì cả nước, cả nước vì Hà Nội".
Thứ hai, bài học về chuẩn bị tốt mọi mặt đợi thời cơ đến, thực hành tiếp quản thắng lợi, hoàn thành sự nghiệp giải phóng Thủ đô. Không phải đánh vào Hà Nội mà vẫn giải phóng Thủ đô một cách nguyên vẹn, đó là kết quả của sự lãnh đạo tài tình đến từ Đảng và Hồ Chủ tịch, tài thao lược của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Việc tiếp quản Thủ đô, giải phóng hoàn toàn Hà Nội có một ý nghĩa hết sức trọng đại đối với sự nghiệp kháng chiến của cả nước. Nhận thức rõ tầm quan trọng đó, Thành uỷ Hà Nội đã chuẩn bị kế hoạch tiếp quản thành phố một cách vô cùng chu đáo. Ngày 17/9/1954, theo quyết định của Chính Phủ, Uỷ ban Quân chính Hà Nội được thiết lập, bộ máy tiếp quản được tổ chức. Trung ương ban hành và phổ biến cho cán bộ tiếp quản các chỉ thị: "Bảo vệ thành phố mới được giải phóng" cùng "08 chính sách đối với thành phố mới được giải phóng" và "10 điều kỷ luật của bộ đội, nhân viên công tác khi vào thành phố mới được giải phóng". Uỷ ban quân chính đã chuẩn bị một lực lượng quân - dân đủ mạnh để phòng và khắc phục mọi hậu quả âm mưu phá hoạt của kẻ địch gây ra. Để khắc phục những khó khăn, nhất là về mặt đời sống vật chất của nhân dân trong những ngày mới giải phóng, Uỷ ban Quân chính thống nhất ban hành chủ trường: ngoài nhiệm vụ chính là sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Thành phố, lực lượng vũ trang nhân dân Thủ đô cần tích cực tham gia mọi hoạt động giúp đỡ nhân dân, nhanh chóng phục hồi sản xuất, góp phần khôi phục nền kinh tế, tăng cường mối quan hệ đoàn kết quân - dân cả nước.
5. Ngày thành lập tỉnh Sơn La (10/10)
Qua kết quả nghiên cứu của các nhà khảo cổ học, dân tộc học, lịch sử…đã chứng minh: từ hàng vạn năm trước đây, vùng đất Sơn La đã có con người sinh sống. Trải qua quá trình lịch sử, từ khi thực dân Pháp xâm chiếm vùng Tây Bắc năm 1886, Sơn La thuộc phủ Gia Hưng tỉnh Hưng Hóa, gồm Phủ Vạn Yên và Phủ Vạn Bú.
Ngày 10/10/1895, tỉnh Sơn La được thành lập với tên gọi là tỉnh Vạn Bú đặt tại Pá Giang, tổng Hiếu Trai. Đến ngày 7/4/1904, tỉnh lỵ chuyển từ Vạn Bú về Sơn La và ngày 23/8/1904, đổi tên thành tỉnh Sơn La. Sơn La có 11 huyện và một thành phố, có diện tích tự nhiên hơn 14.000km2; có 250km đường biên giới giáp với tỉnh Houaphan và tỉnh Luangprabang, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, có bề dày lịch sử truyền thống cách mạng, mảnh đất của cộng đồng 12 dân tộc anh em chung sống gắn bó lâu đời, mỗi dân tộc có nét văn hóa riêng.
Ngay từ những ngày đầu thành lập, nhân dân các dân tộc Sơn La dưới sự lãnh đạo của các thủ lĩnh châu mường đã đứng lên khởi nghĩa vũ trang chống thực dân Pháp xâm lược. Ngày 3/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặt lịch sử vĩ đại trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phong trào cách mạng ở Sơn La ngày càng phát triển, nhất là từ khi Chi bộ nhà tù Sơn La được thành lập, đồng bào các dân tộc Sơn La đã đoàn kết một lòng, gắn bó keo sơn đóng góp quan trọng vào chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Sơn La hôm nay đã thật sự đổi thay. Thành quả ấy được kết tinh qua từng thế hệ, với sự chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị và đồng bào các dân tộc trong tỉnh. Từ một tỉnh nghèo, Sơn La đã vượt lên trở thành tình phát triển khá trong vùng trung du và miền núi phía bắc.
6. Ngày Doanh nhân Việt Nam (13/10)
Ngày 20/9/2004 Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Phan Văn Khải đã ký Quyết định số 990/QĐ-TTg về Ngày Doanh nhân Việt Nam, hằng năm lấy ngày 13 tháng 10 là “Ngày doanh nhân Việt Nam”. Việc Thủ tướng Chính phủ quyết đinh lấy ngày 13/10 là Ngày Doanh nhân Việt Nam mang ý nghĩa lịch sử sâu sắc - đó chính là ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho giới công thương Việt Nam ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ cũng quy định việc tổ chức ngày Doanh nhân Việt Nam hàng năm phải thiết thực, tiết kiệm, có hiệu quả, tránh hình thức, bảo đảm các yêu cầu:
- Giáo dục truyền thống yêu nước, tự cường, chủ động sáng tạo của đội ngũ doanh nhân, động viên phong trài thi đua sản xuất, kinh doanh, nâng cao kỷ luật, đạo đức, văn hóa kinh doanh của các doanh nghiệp, doanh nhân.
- Biểu dương khen thưởng bằng các hình thức thích hợp đối với các doanh nghiệp, doanh nhân kinh doanh giỏi, thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các tổ chức, cá nhân có thành tích trong việc xây dựng và phát triển doanh nghiệp.
Sự ra đời của Ngày Doanh nhân Việt Nam đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc thực hiện những đường lối chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh để tôn vinh vai trò đặc biệt của các doanh nhân trong quá trình phát triển đất nước. Ngày này không chỉ là một dịp kỷ niệm mà còn là một nguồn động viên mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng doanh nhân, tiếp tục phấn đấu mạnh mẽ, vượt qua mọi khó khăn và thách thức, đồng hành cùng Việt Nam trên hành trình tham gia vào nền kinh tế toàn cầu.
7. Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10)
Ngày 14-10-1930, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam họp tại Hương Cảng (Trung Quốc) đã thông qua Nghị quyết về thành lập Tổng Nông hội Đông Dương (tên gọi đầu tiên của Hội Nông dân Việt Nam ngày nay).
Tại phiên họp ngày 17/01/1991, Bộ Chính trị quyết định lấy ngày 14/10/1930 làm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam. Đây là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp nông dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đây là dịp để tôn vinh những đóng góp to lớn của giai cấp nông dân Việt Nam cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Hội Nông dân Việt Nam là trung tâm, nòng cốt cho phong trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới. Mục tiêu hoạt động của Hội là tập hợp đoàn kết nông dân, xây dựng giai cấp nông dân vững mạnh về mọi mặt, xứng đáng là lực lượng tin cậy trong khối liên minh vững chắc công nhân – nông dân – trí thức, bảo đảm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
8. Ngày truyền thống ngành Tổ chức xây dụng Đảng (14/10)
Đảng ta luôn quan tâm đến công tác tổ chức, coi đó là vấn đề trọng yếu liên quan đến sự vững mạnh của Đảng, là một bộ phận chủ yếu hợp thành và có tính chất quyết định thắng lợi trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Ngày 14/10/1930, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất tại Hương Cảng đã quyết định thành lập Bộ Tổ chức kiêm Giao thông (tiền thân của Ban Tổ chức Trung ương ngày nay). Với ý nghĩa lịch sử đó, ngày 14/10 hằng năm được lấy là ngày truyền thống Ngành Tổ chức xây dựng Đảng. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, công tác xây dựng Đảng đều đặt ra cho công tác tổ chức cán bộ những nhiệm vụ cụ thể đòi hỏi phải được đáp ứng kịp thời. Trong các giai đoạn đó, Đảng ta đều có các hình thức tổ chức và phương thức hoạt động phù hợp, công tác tổ chức và cán bộ đã tập trung vào việc thực hiện những nhiệm vụ trọng yếu mà Đảng và cách mạng đặt ra. Thông qua hoạt động thực tiễn, Ngành Tổ chức xây dựng Đảng đã tham mưu giúp Đảng củng cố, phát triển tổ chức của hệ thống chính trị và tuyển chọn được những cán bộ, đảng viên, những chiến sĩ ưu tú, trung kiên cho Đảng, cho cách mạng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng.
9. Ngày truyền thống công tác Dân vận của Đảng (15/10)
Công tác dân vận là vấn đề chiến lược, có ý nghĩa sống còn của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”
Từ ngày 06/01 đến ngày 07/02/1930, Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức tại Hồng Kông (Trung Quốc) do đồng chí Nguyễn Ái Quốc chủ trì với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản. Các văn kiện được thông qua tại Hội nghị (Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt; Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam) đã xác định đường lối cơ bản của cách mạng Việt Nam, chỉ rõ nội dung, nhiệm vụ cách mạng và định hướng cho công tác vận động quần chúng nhằm vào mục tiêu chung của dân tộc.
Sau khi thành lập Đảng, từ ngày 14 đến ngày 31/10/1930, tại Hồng Kông, Hội nghị Trung ương lần thứ nhất đã thông qua Luận cương chính trị, Điều lệ Đảng và các Án nghị quyết về công nhân vận động, nông dân vận động, cộng sản thanh niên vận động, phụ nữ vận động, quân đội vận động, vấn đề cứu tế và đồng minh phản đế. Nghị quyết Trung ương lần thứ nhất chỉ rõ: "Trong các Đảng bộ thượng cấp (từ thành và tỉnh ủy trở lên) phải tổ chức ra các Ban chuyên môn về các giới vận động". Từ tháng 10/1930, hệ thống Ban chuyên môn về các giới vận động của Đảng bao gồm: Công vận, Nông vận, Thanh vận, Phụ vận, Quân đội vận, Mặt trận phản đế được ra đời làm nhiệm vụ tổ chức, tập hợp lực lượng, giáo dục, vận động quần chúng Nhân dân tham gia các phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, nước nhà giành được độc lập. Sự nghiệp cách mạng có những chuyển biến mới, đòi hỏi công tác vận động quần chúng của Đảng cần được tăng cường nhằm động viên tối đa sức người, sức của cho kháng chiến, kiến quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài báo "Dân vận" đăng trên Báo Sự thật, số 120, ra ngày 15/10/1949 với bút danh X.Y.Z. Bài báo có ý nghĩa vô cùng quan trọng, thể hiện xuyên suốt tư tưởng "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng", là cẩm nang của công tác dân vận, chỉ dẫn đầy đủ, sâu sắc về mục đích, đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp công tác dân vận đối với cán bộ, đảng viên, tổ chức chính quyền và các tổ chức đoàn thể trước yêu cầu của sự nghiệp cách mạng.
Tháng 10/1999, nhân kỷ niệm 50 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm "Dân vận", theo đề nghị của Ban Dân vận Trung ương, Bộ Chính trị (khóa VIII) đã đồng ý lấy ngày 15/10/1930 làm Ngày truyền thống công tác Dân vận của Đảng và quyết định chọn ngày 15/10 hằng năm là Ngày “Dân vận” của cả nước để đẩy mạnh việc học tập và thực hiện những lời dạy của Bác Hồ về công tác dân vận. Trải qua 94 năm đồng hành cùng lịch sử cách mạng dân tộc, công tác dân vận luôn là một bộ phận quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, góp phần củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân.
10- Ngày truyền thống Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam (15/10);
Cách đây 68 năm, ngày 15/10/1956, tại Thủ đô Hà Nội, Liên đoàn Thanh niên Việt Nam và Ban vận động mặt trận thanh niên toàn quốc đã tiến hành Đại hội, quyết định thành lập Hội liên hiệp thanh niên (LHTN) Việt Nam. Từ đó, ngày 15/10 hằng năm được chọn là Ngày truyền thống của Hội LHTN Việt Nam.
Từ khi thành lập cho đến nay Hội LHTN Việt Nam không ngừng lớn mạnh và mở rộng cả về quy mô cũng như là chất lượng. Hội có hệ thống tổ chức 4 cấp từ TW đến cơ sở.
Hội LHTN Việt Nam không chỉ phát triển ở trong nước mà tổ chức Hội còn mở rộng đoàn kết tập hợp thanh niên ở ngoài nước. Tổ chức hội liên hiệp thanh niên Việt Nam đã kết nối với tổ chức Hội Thanh niên Sinh viên ở 5 quốc gia bao gồm Nhật Bản, Cộng hòa Séc, Romania, Tây Ban Nha và Ba Lan.
11- Ngày truyền thống ngành Kiểm tra Đảng (16/10);
Ngay từ những ngày đầu thành lập, Đảng ta đã nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát đối với việc bảo đảm cho mục tiêu, lý tưởng, cương lĩnh, chiến lược, đường lối, chính sách, các chỉ thị, nghị quyết được nghiêm chỉnh thực hiện, đồng thời tăng cường việc giữ gìn kỷ luật, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Từ khi thành lập đến năm 1948, công tác kiểm tra của Đảng đã được Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm theo dõi, trực tiếp chỉ đạo, chưa phân công cán bộ theo dõi và thành lập bộ máy kiểm tra chuyên trách. Nhiệm vụ này do các cấp ủy và tổ chức đảng thực hiện, đã góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng qua các thời kỳ.
Cuối năm 1948, do yêu cầu nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng, quy mô và tổ chức hoạt động của Đảng, Cơ quan Kiểm tra chuyên trách của Đảng chính thức được thành lập, từng bước phát triển, ngày càng được kiện toàn và lớn mạnh.
Ban Kiểm tra Trung ương đầu tiên của Đảng được thành lập theo Quyết nghị số 29-QN/TW, ngày 16-10-1948 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (khóa I), do đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh (tức Thận) ký. Ngày đó, trở thành ngày truyền thống của ngành Kiểm tra Đảng.
Ban Kiểm tra Trung ương đầu tiên gồm 3 đồng chí: Trần Đăng Ninh, Nguyễn Thanh Bình, Hà Xuân Mỹ (Hà Minh Quốc) do đồng chí Trần Đăng Ninh làm Trưởng ban, dưới Ban Kiểm tra là các phái viên có nhiệm vụ “đi xuống các khu xem xét chủ trương của Đảng có được thi hành và có sát, đúng không, đồng thời xem xét sự thi hành kỷ luật trong Đảng để tiếp thu kinh nghiệm giúp Trung ương bổ khuyết cho chính sách của Đảng”.
Trong mọi thời kỳ cách mạng cũng như thời bình, kể cả những thời điểm thử thách cam go, quyết liệt nhất, đội ngũ các thế hệ cán bộ kiểm tra của Đảng luôn tin tưởng sự lãnh đạo của Đảng, đoàn kết, chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, chấp hành nghiêm đường lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, liên tục bền bỉ phấn đấu để thực hiện nhiệm vụ được giao.
12- Ngày truyền thống Văn phòng cấp uỷ Đảng (18/10/1930-18/10/2024)
Văn phòng cấp uỷ Đảng được Đảng xác định là một cơ quan chuyên môn trực tiếp giúp cấp ủy điều hành công việc, hoạt động văn phòng được hình thành từ khi Đảng mới được thành lập. Cùng với sự phát triển của cách mạng, vai trò, vị trí lãnh đạo của Đảng ngày càng được tăng cường và mở rộng, chức năng của văn phòng cấp ủy cũng ngày càng được hoàn thiện. Văn phòng cấp uỷ các cấp không ngừng trưởng thành, ngày càng thực hiện tốt hơn hai chức năng quan trọng là tham mưu giúp cấp ủy mà trực tiếp là giúp ban thường vụ và thường trực cấp ủy tổ chức điều hành công việc lãnh đạo của Đảng, là trung tâm thông tin tổng hợp phục vụ cấp ủy và phục vụ trực tiếp các hoạt động hàng ngày của cấp ủy. Ngày truyền thống của Văn phòng cấp ủy được Bộ Chính trị khóa XIII quyết định là ngày 18/10. Từ đó, hằng năm, ngày 18/10 được lấy là ngày truyền thống Văn phòng cấp ủy.
Văn phòng cấp ủy ra sức phấn đấu, rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng và bản lĩnh chính trị, nỗ lực phấn đấu, thực hiện tốt chức năng tham mưu giúp cấp uỷ lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện các mặt công tác; kiên quyết đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, góp phần xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh; tiếp tục phát huy cao độ tinh thần yêu nước, tạo khí thế mới, quyết tâm mới, ra sức thi đua, phấn đấu cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
13- Ngày thành lập Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20/10)
Từ ngày 14- 31/10/1930, tại Hội Nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ nhất, bên cạnh việc thảo luận Luận cương chính trị của Đảng, Hội nghị đã thông qua Nghị quyết về Phụ nữ vận động, trong đó đề ra nhiệm vụ phải tổ chức ra các đoàn thể phụ nữ như “Phụ nữ hiệp hội”. Đồng thời Trung ương Đảng đã đề ra điều lệ Phụ nữ Liên hiệp Hội. Với tính chất quan trọng như vậy, Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ nhất tháng 10/1930 đã đánh dấu quá trình hình thành tổ chức Hội đầu tiên của phong trào phụ nữ dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Ở giai đoạn 1936-1939: Ta có Phụ nữ Dân chủ, Phụ nữ Ái hữu, Phụ nữ Tân Tiến. Từ năm 1939 ta có thêm tổ chức Hội phụ nữ phản đế, nhưng lúc này ở các xứ Bắc - Trung - Nam kỳ, các tổ chức phụ nữ vẫn chưa thống nhất được thành “Đoàn thể Phụ nữ giải phóng trong toàn xứ”.
Năm 1941, tổ chức Phụ nữ cứu quốc ra đời và hoạt động sôi nổi. Bên cạnh đó cũng có rất nhiều các tổ chức phụ nữ nhỏ lẻ khác cùng hoạt động. Tuy nhiên với sự lớn mạnh của Đoàn phụ nữ Cứu quốc, các tổ chức phụ nữ đã đóng góp rất lớn vào thành công Cách mạng tháng 8/1945. Ngày 03/10/1946, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng đã ký Nghị định cho phép thành lập Hội LHPN Việt Nam. Ngày 20/10/1946 Hội LHPN Việt Nam làm lễ ra mắt tại Quảng trường Nhà hát Lớn, Hà Nội. Tên gọi Hội LHPN Việt Nam được duy trì cho đến ngày nay.
Trải qua 94 năm xây dựng và phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam ngày càng xứng đáng là tổ chức đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ Việt Nam. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã giữ vững vai trò nòng cốt trong phong trào phụ nữ, không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động nhằm phát huy mọi tiềm năng, sức sáng tạo./.